LẠC VÀO CÕI THẦN LINH


NĂM 1989: LẠC VÀO CÕI THẦN LINH – LỐI RA BẤT NGỜ

LẠC CÕI THẦN LINH

Mười tám tuổi tôi lên đường cứu nước
Lòng nhiệt thành đâu tính trước nghĩ sau
Quyết hy sinh nên chẳng ngại máu đào
Tìm mọi cách gia nhập vào kháng chiến

Mới lớn lên nên tôi đâu nào biết
Người bên này họ chỉ biết trọng “lon”
Phải xuất thân tướng, tá mới ân cần
Chứ tiểu tốt vô danh là chẳng nhận

Thôi đành vậy, tuy buồn nhưng chẳng giận
Tôi tính đường nhập trận với sinh viên
Nhưng than ôi ở đất nước kim tiền
Chỉ cần được nhảy đầm là mãn nguyện

Đang thất vọng có nhóm làm từ thiện
Hội Tương Thân làm việc giúp đồng hương
Người mới qua chưa rõ lối quen đường
Thêm ngôn ngữ… thật như tuồng câm điếc…

Quan trọng nhất là có tờ Họ Việt
Để anh em cùng viết những suy tư
Trải nỗi lòng tuất kiệt hoặc anh thư
Đang phiêu bạt trên nẻo đường viễn xứ

Anh Vô Kỵ đệ tử thầy Nhất Hạnh
Thường khuyên tôi: “Nóng tánh, tập thiền đi!”
Đang tập tành dò dẫm chửa rành chi
Thì một tối… uy nghi ngồi Đức Phật

Ngài chẳng nói chỉ lặng yên thiền định
Nhưng đủ làm bạt vía kẻ không tin
Rồi tai nghe bao tiếng nói thánh hiền
Làm lẫn lộn đời trần hay ảo ảnh?

Ôi tai hại, dù không mê… chẳng tỉnh
Biết làm sao điều chỉnh được mình đây?
Bao linh hồn cứ to nhỏ bên tai
Làm đảo lộn thằng trai nơi xứ lạ

Một chiều buồn thân phận chợt nghĩ ra
Chỉ có Chúa mới cứu mình khỏi họa
Nghĩ là làm, tôi thành tâm cầu khẩn
Chợt bầu trời trước mặt bỗng mở ra

Từ thánh giá Chúa dang tay chào đón
Tôi hoảng hồn muốn trốn cũng không xong
Rồi bơ vơ lạc lõng giữa bao vòng
Phật với Chúa… tưởng mình trong cõi tử

Tôi thấy Phật khổng lồ hơn núi Thái
Muôn linh hồn sùng bái áo trắng tinh
Quá thương tâm tôi chỉ biết trách mình
Sao kêu réo để bây giờ phạm thánh

Một ngày kia trong lúc tôi đang tắm
Bao thiên thần hiện đến hát hoan ca
Rồi thình lình xuất hiện Mẹ Ma-ri-a
Phật Di Lặc đến mỉm cười thân ái

Bên cạnh Mẹ hai phượng hoàng tả hữu
Cùng vẫy đuôi như lạc giữa bồng lai
Mẹ hiền từ bình ngọc ở trên tay
Đổ nhẹ xuống đầu tôi theo nghi thức

Vẫn chưa hết từ trời cao vọng xuống
Giọng ầm ầm như sấm động, thác tuôn
“Từ nay con là Nghĩa Tử của Ta…”
Tôi nhớ mãi giọng Nguời Cha quyền thế

Rồi từ ấy quyết tâm đi truyền giáo
Nguyện một lòng đền đáp lại ơn cao
Hăm mấy năm lận đận chẳng nên gì
Cha chẳng trách, cứ âm thầm đào tạo

Nay trở lại tôi chẳng là gì cả
Chẳng giàu sang, chẳng chức vị tài ba
Nhưng biết rằng mọi thứ chỉ do Cha
Nên cứ viết, còn Cha lo tất cả

Cha đã hứa Việt Nam Cha sẽ cứu
Cờ vàng bay… sử sách sẽ truyền lưu
Nên chớ sợ hỡi người dân Nước Việt
Một tương lai ngời rạng đến gần thôi!

Xưa Tử Nha từng lập Bảng Phong Thần
Nhà Châu vững tám trăm năm mới tận
Nay kể lại chuyện thánh thần tao ngộ
Dựng “Giê-su triều đại” một ngàn năm!

Bài thơ này con viết vào năm 2016, tóm tắt lại những gì đã xảy ra trong cuộc đời con, kể từ ngày con lên đường đi vượt biển vào tháng 7 năm 1981. Con sinh ra và lớn lên trong một gia đình ngoại đạo, theo truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên. Nhìn lại cuộc đời mình con thấy mọi sự như đã được sắp đặt để hình thành nên một con người như vậy, theo đúng ý Trời cao hay đúng hơn là Thiên Chúa, để đến sau này khi lâm vào hoàn cảnh tẫu hỏa nhập ma bởi do tự mò mẫm tập thiền, con buộc phải kêu cầu đến Chúa Giê-su thì Thiên Chúa đã đón nhận con về như một Người Cha Nhân Lành, luôn ngóng chờ mong đợi đứa con khờ dại của mình…

Lúc ấy vào tháng 5 năm 1989, sau khi được Đức Chúa Trời nhận làm con, con cảm thấy đỉnh đầu mình như được mở ra, thông cùng với các tầng trời. Đó là một cảm giác rất lạ, con nghe tiếng ca hát của các thiên thần từ trời cao vọng xuống. Lúc ấy con đang ở thành phố Norfork, cách thành phố Lincoln khoảng hai tiếng đồng hồ lái xe. Con chạy xe về đến Lincoln thì trời bắt đầu sẩm tối, và lạ thay bấy giờ con mới chợt khám phá ra rằng chung quanh mình không có một người nào cả. Con dừng xe lại và đi bộ khắp nơi, nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy một bóng người…

Thậm chí có nhiều nhà quen và các chung cư con đi vào cũng vậy, tất cả đều tối lờ mờ dưới ánh sáng vàng hiu hắt. Con đã sống ở thành phố này từ năm 1982 đến giờ nên rất quen thuộc với sự sinh hoạt trong thành phố này. Việc này không thể nào có được, nó giống như một thành phố chết hoặc là con đã chết và đang đi lang thang trong thành phố mà chẳng thấy một ai. Càng về khuya càng vắng lặng, những âm thanh như tiếng các linh hồn lùa trong gió bắt đầu nói chuyện với con, muốn con đi đến chỗ này chỗ kia hoặc làm điều gì đó. Thời gian qua rất lâu rồi bây giờ con cũng không nhớ rõ lắm vì lúc đó con như nửa mê nửa tỉnh. Giờ nhớ lại, hình như đó là những cám dỗ mà con phải trải qua và con đã rớt một cách thậm tệ. Chỉ có lần sau cùng khi con đối diện với một trường hợp là nếu mình chịu chết thì cứu được tất cả người dân trong thành phố này, còn nếu con không chấp nhận thì họ sẽ không bao giờ trở lại nữa. Con vừa chọn cái chết cho mình xong thì một tiếng nổ long trời lở đất kết thúc mọi sự, trời đất sáng ra, và con cũng vừa khám phá ra mình đã chạy xe xuyên qua ga-ra nhà anh Vô Kỵ, người đã bày cho con tập thiền lúc trước.

Anh Vô Kỵ là người rất thương con, lúc ấy con xem anh ấy như người anh của mình nên con không lý do nào chạy xe xuyên qua nhà anh như vậy được. Sau này gặp lại anh, con có nhắc lại việc hổi xưa và nói rằng lúc đó con không hề cố ý, anh mỉm cười nói anh cũng biết vậy nên chẳng hề trách con.

Tuy đã nói thật rằng mọi việc do mình tập thiền rồi lạc vào thế giới bên kia nhưng cảnh sát họ vẫn không tin và con bị nhốt chờ ngày ra tòa. Những ngày ở trong tù tạm, con thường được thấy Chúa Giêsu đến thăm nên nghĩ cũng chẳng cần thiết phải minh oan cho mình nữa, nghĩ họ muốn làm sao cũng được, phần mình đã có Chúa lo rồi nên cũng chẳng sao.
Kết quả tòa đã xử cho con bị giam 16 tháng. Con tuy ở tù mà lòng rất vui vì tối ngày tha hồ đọc Kinh Thánh, càng đọc con càng biết thêm nhiều về Thiên Chúa và càng mến yêu sùng bái Người. Con quyết định sau khi mãn hạn tù sẽ đi truyền giáo để mọi người biết về Cha Thiên Chúa trên trời.

Trong thời gian này con cũng tìm hiểu về những nhà truyền giáo ở Hoa Kỳ và biết được ông Billy Graham là một nhà truyền giáo kỳ cựu. Với ý tưởng đơn sơ là mình chấp nhận mọi khó khăn hoặc thậm chí dám hy sinh cho cánh đồng truyền giáo thì cũng cùng chung lý tưởng của ông và ông luôn cần có một người như vậy. Nghĩ vậy nên con hăm hở viết một lá thư rất dài kể hết lại mọi chuyện đã xảy ra, chỉ mong được ông giúp cho con cùng được góp phần trong công việc này.

Thư gởi đi rồi con cứ chờ đợi mãi mà chẳng thấy trả lời. Về sau, khi đã thực sự hết hy vọng về ông, con được Chúa tỏ cho biết rằng việc của con bây giờ nói ra khó ai tin được, cùng lắm họ chỉ nghĩ con bị thần kinh mà thôi. Vì vậy, từ đó cho đến gần đây trên 28 năm trời con không bao giờ nói ra với ai nữa, ngay cả Mai cũng chỉ mới biết khi con đăng bài thơ trên kể lại sự việc xảy ra mà thôi.

Gioan Phan Tân


Leave a Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *

PHONG TRÀO LIÊN KẾT NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC