Tôi trở lại thành phố Lincoln vào khoảng tháng 2 năm 1993. Cành vật thì vẫn như xưa nhưng con người giờ đây đã khác. Người Việt mới qua ở khắp nơi trong thành phố, đi đâu cũng gặp, có thể nói là nhiều đến mấy chục lần lúc trước khi tôi đi. Đó là điều tôi không hề nghĩ đến lúc còn ở Teen Challenge, vì nơi đó hoàn toàn biệt lập với bên ngoài.
Hàng xóm với thằng em trai cũng toàn người Việt, trong đó có một số đông là người Công Giáo. Nghe nói tôi vừa ở trong Teen Challenge về và có ý muốn đi truyền giáo họ thích lắm, cứ gọi tới nhà chơi luôn. Phần tôi cũng đang tranh thủ kiếm việc làm và nhanh chóng để dành được $5.000 hầu xin vào trường YWAM. Tôi tự hứa với lòng, dù khó khăn đến mấy tôi cũng sẽ trở thành nhà truyền giáo như đã hứa với Cha lúc trước.
Một hôm, lúc tôi và mấy đứa em đang ngồi trò chuyện ngoài sân thì có hai cô gái Mỹ ăn mặc lịch sự đến gợi chuyện. Họ hỏi chúng tôi có thời giờ để nói chuyện với họ về Chúa Giê-su không? Đối với tôi, thì lúc nào cũng sẵn sàng nói về Thiên Chúa của mình, tôi có thể nói ngày đêm không chán, có lẽ vì vậy mà thằng em và mấy đứa bạn cũng đã “ớn” rồi, bây giờ thấy hai cô này đòi nói chuyện về Chúa nữa, tụi nó lắc đầu bỏ đi chỗ khác hết.
Sau vài phút nói chuyện, biết tôi đang dự định đi truyền giáo, hai cô gái ấy mừng lắm, bảo rằng họ cũng đang đi truyền giáo cho nhà thờ “Các Thánh Ngày Sau Cùng” (hoặc Mạc Môn) của họ, đồng thời họ sẽ giúp tôi trở thành nhà truyền giáo. Đúng là “buồn ngủ gặp chiếu manh”, việc này tôi đang xoay sở mãi chưa xong thì bây giờ có người đến tận nhà hứa giúp tôi đạt thành nguyện ước. Thấy tôi nói tiếng Anh thông thạo, họ nhờ tôi đến nhà thờ họ giúp làm thông dịch viên. Việc gì chứ giúp việc cho nhà thờ thì tôi lúc nào cũng sẵn sàng, vì tôi biết điều này sẽ rất đẹp lòng Cha Thiên Chúa trên trời.
Như đã nói trước đây, tôi lớn lên chưa từng sinh hoạt nhiều trong Thiên Chúa Giáo nên chẳng biết giáo phái nào là giáo phái nào. Bây giờ nghe tên nhà thờ này là “Các Thánh Ngày Sau Cùng” thì đơn giản chỉ nghĩ họ cũng là một chi phái bên Tin Lành, vì ở bên Mỹ này Tin Lành có đến mấy trăm chi phái, chứ không đơn giản chỉ có một Tin Lành như bên Việt Nam mình.
Mục sư Rassmussen gặp tôi vui lắm, sau khi hai chị truyền giáo nhắc lại ý nguyện của tôi, ông nói hai chị này là hai nhà truyền giáo của nhà thờ của các chị bên tiểu bang Utah, còn tôi bây giờ cứ đến đây giúp việc cho ông một thời gian, ông sẽ cho tạo cơ hội để tôi trở thành nhà truyền giáo cho nhà thờ của ông, ngay tại thành phố Lincoln này. Quy luật của đạo này không khó lắm, nào là không hút thuốc, không bia, rượu… toàn là những thứ tôi không vướng nên thấy rất hợp với mình. Hơn nữa, nhìn ra những người Công giáo hoặc Tin Lành khác chúng quanh, tôi thấy họ vẫn cứ tự nhiên nhậu nhẹt hàng tuần, gây ra bao phiền phức…. Tôi thầm nghĩ nếu họ lấy tên “Các Thánh Ngày Sau Cùng” chắc phải có lý do của họ.
Ngay thánh lễ đầu tiên tôi đã được phong là thầy Tư Tế I, lãnh nhiệm vụ đọc sách thánh, lời nguyện và phiên dịch lời giảng cửa mục sư. Người Việt ở nhà thờ này cũng khá đông, khoảng trên 50 người, toàn là người mới qua. Thấy tôi nói tiếng Anh như “gió” họ mừng lắm, nhờ đủ thứ chuyện. Tôi thấy mình như anh chột “rơi” vào xóm mù, đúng là được việc. Mấy bà cứ kiếm tôi nhờ đi thông dịch phỏng vấn welfare, foodstamp, chở người nhà họ đi kiếm việc làm, giấy tờ thẻ xanh, lãnh phiếu sữa cho trẻ em, đọc thư hộ vì họ nhận thư Mỹ gởi mà chẳng hiểu mô tê gì. Tôi làm hết một cách dễ dàng nên họ còn giới thiệu thêm người mới qua tới thêm để tôi giúp. Mục sư Rassmussen thấy tôi được việc, nhiều khi còn cho tôi chia sẻ lời Chúa luôn. Thôi thì một bước lên mây, tôi thao thao bất tuyệt, bao tháng ngày chuẩn bị ở Teen Challenge giờ được dịp tuôn ra, mấy bác mấy dì nghe có tin không thì chưa biết, nhưng thấy tôi nói với tất cả niềm tin của mình thì thương lắm, ngỡ tôi như đạo đức lắm vậy.
Riêng tôi thì sau tuần đầu tiên đã thấy nhà thờ này hơi khác lạ. Vì bên cạnh cuốn Kinh Thánh họ còn có cuốn Mạc Môn. Họ chỉ coi Chúa Giê-su như những tiên tri, ngôn sứ khác của Thượng Đế mà thôi. Biết thì biết vậy nhưng công việc cứ dập dồn làm tôi lúc nào cũng bận, chưa dứt khoát được tư tưởng của mình. Hơn nữa, dù sao họ cũng tôn thờ Thượng Đế là Cha Chí Thánh trên trời, và bây giờ tôi đang có cơ hội để trở thành nhà truyền giáo sau những tháng năm dài chờ đợi, thật khó lòng bỏ hết được.
Vài tháng trời thấm thoát trôi nhanh, lúc ấy tôi đã có việc làm, cuối tuần ra nhà thờ Mạc Môn giúp việc. Một hôm, mục sư Rassmussen nói đã đến lúc tôi lên chức Tư Tế II để chuẩn bị đi truyền giáo sau này. Trước khi chịu chức ông sẽ cùng tôi đến một vị nào đó ở gần đây để vị ấy đặt tay lên đầu tôi, cầu nguyện xem ý Chúa cho tôi như thế nào. Sau đó, tôi còn phải qua Utah gặp vị Thượng Tế cao nhất của Mạc Môn để người ban phép chúc lành cho nữa.
Tôi thầm trách mình đã lỡ lún vào Mạc Môn quá sâu. Họ không xem Chúa Giê-su là Đấng Cứu Chuộc Duy Nhất thì chưa chắc đã có sự cứu rỗi, mà nếu vậy thì… Nghĩ lại những việc đã xảy ra với chính mình, tôi thấy tôi được nhiều Hồng Ân như vậy cũng bắt đầu bằng việc Chúa Giê-su đón mình trở về, nếu lúc ấy Chúa chẳng đón tôi thì bây giờ tôi có được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha như vậy hay không? Thôi, tôi nhất định phải ra khỏi chốn này thôi…
Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng làm rất khó, vì tôi đã hứa với mục sư Rassmussen ngày giờ đến nhà ông kia rồi. Hơn nữa, mục sư Rassmussen trước giờ rất tốt với tôi, có khác chăng chỉ ở đức tin. Thôi, đành phải đi chuyến này cho xong rồi lấy lý do nào đó như mình phải qua thành phố khác một thời gian để khỏi đến nhà thờ Mạc Môn nữa là xong vậy.
Đó cũng là một trong những kinh nghiệm thấm thía nhất mà tôi đã trải qua. Cái cám dỗ nhiều khi nó đến thật ngọt ngào, êm dịu… qua ngay chính những ngưỡng cửa ước mơ chính đáng của mình. Đến khi mọi việc đã rồi, mình phải đối diện với đúng, sai mới thật là khó. Từ bỏ tất cả hay nhắm mắt làm ngơ? Ra đi thì chẳng có gì nhưng vẫn còn có Cha trên trời để thở than tâm sự. Còn ở lại là một sự day dứt lương tâm kéo dài theo ngày tháng… Thiên Chúa luôn để cho mình con đường tự do lựa chọn…
Gioan Phan Tân