JUST A SAMPLE PAGE


Lúc ấy vào tháng 5 năm 1989, sau khi được Đức Chúa Trời nhận làm con, con cảm thấy đỉnh đầu mình như được mở ra, thông cùng với các tầng trời. Đó là một cảm giác rất lạ, con nghe tiếng ca hát của các thiên thần từ trời cao vọng xuống. Lúc ấy con đang ở thành phố Norfork, cách thành phố Lincoln khoảng hai tiếng đồng hồ lái xe. Con chạy xe về đến Lincoln thì trời bắt đầu sẩm tối, và lạ thay bấy giờ con mới chợt khám phá ra rằng chung quanh mình không có một người nào cả. Con dừng xe lại và đi bộ khắp nơi, nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy một bóng người…

Thậm chí có nhiều nhà quen và các chung cư con đi vào cũng vậy, tất cả đều tối lờ mờ dưới ánh sáng vàng hiu hắt. Con đã sống ở thành phố này từ năm 1982 đến giờ nên rất quen thuộc với sự sinh hoạt trong thành phố này. Việc này không thể nào có được, nó giống như một thành phố chết hoặc là con đã chết và đang đi lang thang trong thành phố mà chẳng thấy một ai. Càng về khuya càng vắng lặng, những âm thanh như tiếng các linh hồn lùa trong gió bắt đầu nói chuyện với con, muốn con đi đến chỗ này chỗ kia hoặc làm điều gì đó. Thời gian qua rất lâu rồi bây giờ con cũng không nhớ rõ lắm vì lúc đó con như nửa mê nửa tỉnh. Giờ nhớ lại, hình như đó là những cám dỗ mà con phải trải qua và con đã rớt một cách thậm tệ. Chỉ có lần sau cùng khi con đối diện với một trường hợp là nếu mình chịu chết thì cứu được tất cả người dân trong thành phố này, còn nếu con không chấp nhận thì họ sẽ không bao giờ trở lại nữa. Con vừa chọn cái chết cho mình xong thì một tiếng nổ long trời lở đất kết thúc mọi sự, trời đất sáng ra, và con cũng vừa khám phá ra mình đã chạy xe xuyên qua ga-ra nhà anh Vô Kỵ, người đã bày cho con tập thiền lúc trước.

Anh Vô Kỵ là người rất thương con, lúc ấy con xem anh ấy như người anh của mình nên con không lý do nào chạy xe xuyên qua nhà anh như vậy được. Sau này gặp lại anh, con có nhắc lại việc hổi xưa và nói rằng lúc đó con không hề cố ý, anh mỉm cười nói anh cũng biết vậy nên chẳng hề trách con.

Tuy đã nói thật rằng mọi việc do mình tập thiền rồi lạc vào thế giới bên kia nhưng cảnh sát họ vẫn không tin và con bị nhốt chờ ngày ra tòa. Những ngày ở trong tù tạm, con thường được thấy Chúa Giêsu đến thăm nên nghĩ cũng chẳng cần thiết phải minh oan cho mình nữa, nghĩ họ muốn làm sao cũng được, phần mình đã có Chúa lo rồi nên cũng chẳng sao.

Kết quả tòa đã xử cho con bị giam 16 tháng. Con tuy ở tù mà lòng rất vui vì tối ngày tha hồ đọc Kinh Thánh, càng đọc con càng biết thêm nhiều về Thiên Chúa và càng mến yêu sùng bái Người. Con quyết định sau khi mãn hạn tù sẽ đi truyền giáo để mọi người biết về Cha Thiên Chúa trên trời.

Trong thời gian này con cũng tìm hiểu về những nhà truyền giáo ở Hoa Kỳ và biết được ông Billy Graham là một nhà truyền giáo kỳ cựu. Với ý tưởng đơn sơ là mình chấp nhận mọi khó khăn hoặc thậm chí dám hy sinh cho cánh đồng truyền giáo thì cũng cùng chung lý tưởng của ông và ông luôn cần có một người như vậy. Nghĩ vậy nên con hăm hở viết một lá thư rất dài kể hết lại mọi chuyện đã xảy ra, chỉ mong được ông giúp cho con cùng được góp phần trong công việc này.

Thư gởi đi rồi con cứ chờ đợi mãi mà chẳng thấy trả lời. Về sau, khi đã thực sự hết hy vọng về ông, con được Chúa tỏ cho biết rằng việc của con bây giờ nói ra khó ai tin được, cùng lắm họ chỉ nghĩ con bị thần kinh mà thôi. Vì vậy, từ đó cho đến gần đây trên 28 năm trời con không bao giờ nói ra với ai nữa, ngay cả Mai cũng chỉ mới biết khi con đăng bài thơ trên kể lại sự việc xảy ra mà thôi.

Chúa Nhật ngày 17-1-16

NHÀ GIAM – NHỮNG THÁNG NGÀY ĐƯỢC CHA SOI LÒNG HỌC KINH THÁNH

Mười sáu tháng trời chẳng mấy chốc đi qua, tôi đã trải qua những tháng ngày chỉ biết đọc Kinh thánh, đọc mùi mẫn, đọc không hề biết chán. Có những lần như Thiên Chúa đổ tuôn vào linh hồn tôi hình ảnh, ý nghĩa của Lời Ngài như một đoạn phim hoặc ý nghĩ cứ tràn đầy tuôn chảy như một dòng sông. Tôi như lạc vào thế giới của những ngàn năm trước, của những ngày Thiên Chúa theo bước Áp-ra-ham, rồi Ja-cóp và Giô-sếp. Tôi chợt khám phá ra rằng Thiên Chúa cũng đang theo tôi như người Cha Nhân Lành qua nhiều cách mà Ngài đã tỏ cho tôi biết. Chỉ là Thần Khí của Ngài thôi, chứ không được như thánh nữ Faustina là Chúa Giê-su cứ hiện đến với chị rất, rất nhiều lần. Biết được điều đó đã làm tôi từ đó đến nay rất an tâm và say mê trong tình yêu Thiên Chúa.

Được Thiên Chúa ở cùng tôi chằng còn sợ gì cả, tôi nghĩ nếu mình bị quăng vào hầm sư tử hoặc bị thiêu đốt như tiên tri Đa-ni-ên thì cũng vẫn bình yên như thường. Thậm chí nếu bom nguyên tử có nổ ngay trên đầu tôi, tôi cũng không sợ vì Thiên Chúa sẽ đỡ cho tất cả. Tôi lại càng biết rằng tôi chẳng là gì cả, không một sức mạnh thần thánh nào, nhưng nếu đó là việc của Thiên Chúa và Thiên Chúa muốn làm để đem lại lợi ích cho muôn ngàn linh hồn khác thì Ngài sẽ để việc ấy nên trọn. Riêng tôi, nếu Thiên Chúa để cho tôi phải thẹn thùng, nhục nhã vì đức tin của mình mà vẫn cứ một mực tin, bám víu vào Cha đến hơi thở cuối cùng, thì đó lại là một ân huệ vô song, như Thiên Chúa đã từng ban ơn huệ ấy cho Chúa Giê-su, Con Một của Ngài và cũng là Đấng Cứu Chuộc của tất cả ai được nhận làm con Thiên Chúa. Ngày xưa, trên đoạn đường lên đồi Gô-gô-tha và nhất là lúc Ngài bị treo trên thập giá, nhiều người đã rất ngạc nhiên và họ tự thắc mắc rằng: “Nếu Chúa Giê-su đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa và đã từng làm nhiều phép lạ để chứng tỏ điều ấy, thì giờ đây sao Ngài không thể tự cứu lấy mình?”. Câu hỏi cũng không hẳn vô lý vì những người thắc mắc ấy thật tình không biết rõ sứ mạng của Chúa Giê-su, Ngài đến để chuộc tội thay cho nhân loại. Nhưng trong số đông ngày hôm đó, câu hỏi còn có tính mỉa mai, miệt thị và thách đố. Trong ba năm đi giảng về Nước Trời, Chúa Giê-su chưa bao giờ suy nghĩ hay chuẩn bị một tương lai trần thế nào cho mình. Ngài chỉ vì người nghèo, làm tất cả vì người nghèo, thế mà giờ đây không một ai biện hộ… Thiên Chúa đã để cho Con mình trải qua hết tận cùng những hương vị đắng cay của sự bạc bẽo tình đời. Điều đáng nói ở đây là Chúa Giê-su đã vượt qua và vẫn tin tưởng vào Cha mình cho đến hơi thở cuối cùng…

Thiên Chúa là vậy. Tuy là Đấng Chủ Tể của mọi vật, Ngài vẫn luôn chọn cách hành xử khiêm nhượng, chỗ đứng sau cùng. Chúa Giê-su không sinh ra trong hoàng cung mỹ lệ mà là một hang đá bần hàn. Các tiên tri, ngôn sứ… của Ngài ngày xưa cũng vậy, vật chất giàu sang không phải là điều Ngài muốn dành cho con cái Ngài. Nếu Ngài có cho, thì cũng chỉ là để cho họ có cơ hội làm cánh tay nối dài của Thiên Chúa, đem tình yêu của Ngài đến chia sẻ với những người nghèo hèn bất hạnh mà thôi…


Leave a Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *

PHONG TRÀO LIÊN KẾT NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC