Thời xưa người ta xem quãng thời gian 40 năm như chu kỳ vận mệnh của một quốc gia, dân tộc. Tôn Vũ, tác giả cuốn “Tôn Tử Binh Pháp” nổi tiếng thời Chiến quốc, từng được vua Ngô là Hạp Lư mời về làm quân sư lo việc chinh phạt nước Sở. Ngày kia, vì nổi giận với nước Việt, Hạp Lư định xua quân đánh thì Tôn Vũ can: “Năm nay sao Tuế Tinh ở nơi phần đất Việt, ta giao tranh với nước Việt tất không lợi”. Hạp Lư không nghe, thân hành cử binh sang đánh nước Việt, cướp lấy nhiều của cải rồi rút quân về.
Tôn Vũ nói riêng với Ngũ Viên: “Sau bốn mươi năm nữa, nước Việt cường thịnh mà nước Ngô phải suy vong”. Sự việc sau này đã xảy ra đúng như lời Tôn Vũ tiên đoán: khoảng bốn mươi năm sau, nước Việt có một vị vua nổi tiếng dùng Khổ nhục kế là Câu Tiễn, đã nhiều năm trời nằm gai nếm mật quyết tâm rửa hận, thậm chí còn nếm cả phân kẻ thù để tỏ lòng thần phục. Đồng thời lại dâng một tuyệt thế giai nhân là Tây Thi, làm vua Ngô là Phù Sai suốt ngày mê mẩn tâm thần với nhan sắc đổ nước nghiêng thành này. Cuối cùng, nước Ngô đã bị Câu Tiễn xóa tên khỏi các nước chư hầu thời ấy.
Lịch sử Do Thái thời Cựu Ước cũng vậy, trong quãng thời gian 350 năm, sau khi được Thiên Chúa đưa vào vùng đất hứa, người Do Thái nhiều lần lơ là trong việc thờ phụng nên Thần Khí Thiên Chúa đã bỏ đi. Một thời gian sau, họ bị những ngoại bang hùng mạnh hơn tấn công và cai trị khổ sở, nên lại kêu cầu Thiên Chúa. Cứ mỗi lần như vậy, Thiên Chúa lại động lòng và sai các ngôn sứ, hoặc thủ lãnh đến cứu họ. Hầu hết những lần như vậy, người Do Thái được sống yên ổn hòa bình trong quãng thời gian bốn mươi năm.
Ấy vậy mà đã hơn bốn mươi lăm năm trôi qua, kể từ biến cố 30/4/1975 khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, người Việt lưu vong trên đất khách quê người, vẫn chưa thấy một đổi thay nào cho vận mệnh quê hương…
Thật ra, đã có rất nhiều sự đổi thay. Mà đổi thay lớn nhất là bộ mặt thật của Cộng Sản đã được phơi bày: Đó là chế độ của sự mị dân, lừa bịp và ngu dốt. Chế độ ấy chỉ đưa đất nước đến chỗ nghèo nàn, đói rách và lạc hậu mà thôi. Trước năm 1975, hai miền Nam, Bắc thuộc hai bên chiến tuyến khác nhau, bên nào cũng dành lẽ phải về mình. Lúc ấy, người dân miền Bắc có ủng hộ lý tưởng Tự do không thì chưa rõ, chứ người dân trong miền Nam ủng hộ lý tưởng Cộng Sản ngược lại khá nhiều. Cụ thể là giới sinh viên, học sinh đã nhiều lần xuống đường biểu tình. Chỉ ra như vậy, để thấy rằng trước năm 1975, không riêng gì Cộng Sản ở Việt Nam, mà cả trên thế giới cũng vậy, “chính nghĩa” có vẻ nghiêng về phía họ, vì họ đứng sau chiêu bài yêu nước, chống ngoại xâm. Mà những điều ấy, người dân miền Nam lại trải nghiệm khá rõ trong đời sống hằng ngày. Lính Mỹ vốn chẳng hiền lành đạo đức gì, đi đến đâu là tệ nạn mãi dâm, đĩ điếm tăng nhanh ở đó. Uống bia, uống rượu say xỉn lái xe tông chết người rồi bỏ chạy là việc thỉnh thoảng xảy ra. Trước năm 1975, ít khi nghe nói có người lính Mỹ nào, vì cưỡng bức một phụ nữ hoặc tông xe chết người, mà phải bị đền tội trước pháp luật cả. Là người Việt Nam, tuy nghèo nhưng người dân họ cũng có lòng tự trọng, tự ái. Những việc ấy tuy nhỏ nhưng đã chạm vào tinh thần dân tộc của họ. Tác phong vô kỷ luật bừa bãi của một số người lính quốc gia khi đi hành quân hoặc khi đi trận về, cũng góp phần làm xấu đi hình ảnh kỷ cương quân đội. Thêm nữa, không ít gia đình có người thân đi tập kết ngoài Bắc hoặc hoạt động ngầm cho Cộng Sản. Tất cả những thứ ấy cộng lại, làm cho một số lớn người dân miền Nam, không khỏi có cái nhìn thiện cảm với những người đi tuyên truyền cho Cộng Sản.
Nhưng những gì Cộng Sản có chỉ là sự lừa bịp và dối trá. Ngoài Bắc thì họ che dấu thông tin, người dân chỉ nghe được những gì họ muốn cho nghe mà thôi. Cho đến nay, chúng ta thấy Bắc Hàn và Cu Ba vẫn còn như vậy. Truyền thông bị kiểm soát ngặt nghèo “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, nên chẳng ai biết rõ thực hư bên ngoài ra sao. Còn bên trong, chỉ có bộ máy tuyên truyền một chiều của nhà nước Cộng Sản mà thôi.
Tuy vậy, khắc tinh lớn nhất của sự dối trá chính là thời gian và sự thật. Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc về kỹ nghệ máy tính, thông tin mạng toàn cầu đã lần lượt vạch trần tội ác và sự giả dối của Cộng Sản từ bao năm qua, làm người ta bừng tỉnh và ghê sợ. Chủ nghĩa Cộng Sản sau bao thập niên lừa bịp người đời, nay đã hiện nguyên hình là một chủ nghĩa độc tài, ngu dốt và hoang tưởng… chỉ đem lại đói nghèo và lạc hậu cho bất cứ quốc gia nào theo đuổi nó. Lần lượt hết nước này đến nước khác trong thành trì Xã Hội Chủ Nghĩa, đã từ bỏ lý tưởng của mình và lần mò tìm cách phát triển đất nước theo con đường tư bản.
Như vậy, Cộng Sản đã mất đi hết “chính nghĩa” mà trước đây họ đã ngụy tạo cho mình. Riêng ở Việt Nam, tình trạng ấy càng tệ hại hơn vì sự can thiệp, lấn át ngày càng nhiều của Tàu Cộng trên các vấn đề thực phẩm cũng như chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải và không phận quốc gia. Mà trong đó, nhiều thảm họa môi trường sông, biển hiện đang là vấn đề thời sự nhức nhối lúc này. Khắp nơi trong nước, người dân đứng lên biểu tình vì quyền lợi bản thân, gia đình đang bị mất mát; sức khỏe, tính mạng đang bị đe dọa. Thậm chí có nơi, như ngoài đảo Lý Sơn chẳng hạn, nhà nào cũng có người thân hoặc họ hàng đã bị Tàu Cộng giết chết ngoài khơi, mà chính quyền chẳng bảo vệ hay giúp đỡ được gì. Người xưa thường nói Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa là ba yếu tố quan trọng dẫn đến thành công. Hiện nay, cả ba yếu tố này đều đang thuộc về phía những người Việt Nam yêu nước, nhất là những người Việt quốc gia hải ngoại. Nhưng dường như chúng ta không nắm bắt được cơ hội này. TẠI SAO? TẠI SAO? và TẠI SAO?
Có hằng trăm lý do để giải thích tại sao, nhưng lý do thuyết phục nhất là chúng ta chưa có được một Tổ chức đáng tin cậy nơi hải ngoại. Tổ chức ấy tuy ở hải ngoại nhưng phải có sự liên lạc mật thiết, rộng rãi với những phong trào đấu tranh khắp nơi trong nước. Có như vậy, những phong trào đấu tranh của bà con trong nước mới có chỗ dựa để càng ngày càng dâng cao, đi đến chỗ có thể thay đổi cả chế độ. Nói cách khác: Nếu muốn thành công, cộng đồng người Việt quốc gia hải ngoại phải là hậu phương vững vàng, tin cậy cho những ông bà anh chị em đang đấu tranh trong nước. Tất cả các cuộc cách mạng trong lịch sử nhân loại mà thành công được, đều nhờ biết cách TỔ CHỨC, TỔ CHỨC và TỔ CHỨC!
Thực ra, ở hải ngoại lâu nay đã có nhiều phong trào, đoàn thể. Nhưng có phong trào, đoàn thể nào thực sự được người Việt cả trong nước và hải ngoại tin tưởng? Mà đã không có được sự tin tưởng căn bản thì làm sao phát triển lâu dài và rộng lớn? Muốn có được một tổ chức như vậy không thể hấp tấp mà cần phải có thời gian. Cần thời gian, nhưng không phải lập ra rồi ngồi đó chờ thời mà phải hoạt động thường xuyên và tích cực, mới gây được tiếng vang và tác động đến nhiều người. Tổ chức ấy phải ngày càng lớn mạnh và lôi cuốn được nhiều nhân sĩ cả trong và ngoài nước, để tất cả cùng quy về một mối thì mới thành công.
Có hằng trăm hoặc hàng ngàn người Việt ở hải ngoại có thể nghĩ rằng mình yêu quê hương đất nước, nhưng thử hỏi họ thật sự có dám hy sinh vì đại cuộc hay không? Hay chỉ là những nhà chính trị “sa-lông” ngồi trên ăn trước? Những người ấy, nếu may mắn thành công cũng chưa hẳn là cái may cho dân tộc. Còn nếu như là hạng “dám nói, dám làm” như Trần Văn Bá, Hoàng Cơ Minh… thì phải xin hỏi là hùng tài đại lược tới đâu? Người lãnh đạo chân chính chỉ có tấm lòng nhiệt huyết thôi còn chưa đủ, mà cần phải hội đủ ba điều: Tâm, Tầm và Tài. Thiếu đi yếu tố nào cũng chẳng được: không có tâm thì chẳng làm ai tin tưởng; không có tầm nhìn xa trông rộng thì kế sách chẳng thông; không có thực tài thì làm sao bình thiên hạ?
Tâm là lòng yêu nước thương dân thật sự. Tầm là viễn kiến lâu dài muốn đưa đất nước về đâu? Tài là quyền biến trước mặt để từng bước hiện thực hóa những viễn kiến lâu dài ấy.
Có trường hợp tuy người lãnh đạo đã hội đủ ba điều kiện ấy, như Khổng Minh thời Tam quốc chẳng hạn, nhưng việc lớn vẫn không thành bởi vì “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Chính Ngọa Long tiên sinh khi còn ẩn thân nơi sơn dã, cũng đã thông hiểu cơ trời nên lòng nhiều do dự. Chẳng qua vì cảm kích cái ân tình “tam cố thảo lư” của Lưu Bị, mà phải đành xuống núi bôn ba. Việc lớn thiên hạ xưa nay, còn phải do lòng Trời nữa. Khi ý Trời đã định, tất sẽ có quý nhân phù trợ, việc lớn mới thành…
Xét về thời cuộc hiện nay có thể kết luận rằng: Quê hương Việt Nam đang đứng trước nguy cơ diệt vong, bởi bọn Tàu Cộng tàn ác thâm hiểm khôn lường, cùng sự tiếp tay của tập đoàn hèn nhát bán nước Ba Đình. Người Việt quốc gia yêu nước hơn lúc nào hết, cần phải dấn thân vì đại cuộc, chứ đừng trông đợi ở Hoa Kỳ hay bất kỳ một ai nào khác. Vì sự tự do và tương lai của đất nước mình, mà còn phải chờ đợi ở người ngoài, thì nếu may mắn dẹp tan được chính quyền Cộng Sản vô thần, bất quá cũng chỉ thay thế bằng một chính quyền bù nhìn, hoặc một tập đoàn chư hầu khác, cho một cường quốc nào đó mà thôi.
Thật ra không ai xót xa khi nghe tin đồng bào mình bị Tàu Cộng ức hiếp trên đất liền hay biển cả; không ai chạnh lòng vì bao phụ nữ Việt Nam vì hoàn cảnh khó khăn mà phải lấy chồng ngoại quốc, rồi chịu bao nhiêu đày đọa nơi xứ lạ quê người; không ai xấu hổ ngại ngùng trước những tin tức loan truyền trên mạng về tình trạng người Việt Nam ra nước ngoài ăn cắp bị bắt quả tang… bằng chính người Việt chúng ta cả. Đồng thời, cũng chẳng ai mong muốn và tự hào khi tổ quốc được vinh danh bằng chính dòng dõi con cháu Lạc Hồng. Hãy đứng trên đôi chân, và bắt đầu với hai bàn tay và khối óc của mình, chứ đừng trông chờ vào ai khác. Tinh thần tự lực tự cường là đây! Nước nhà có được ngày mai tươi sáng hay không, là nhờ ở những con người có tinh thần bất khuất và lòng yêu nước vô bờ. Hồn thiêng sông núi nhất định sẽ che chở và bảo vệ họ!
Gioan Phan Tân