Rời khỏi nhà thờ Mạc Môn xong tôi ở nhà chú tâm đọc Kinh Thánh và vẫn tiếp tục đi làm như trước. Mấy gia đình hàng xóm thấy tôi lúc ấy hay ở nhà nên lại gọi sang chơi và hay nhờ những việc liên quan đến giấy tờ vì tôi rất khá về mặt này. Họ cũng mới qua thuộc dạng lợi tức thấp còn đang hưởng tiền trợ cấp xã hội. Tôi lại giúp họ đi phỏng vấn foodstamp, welfare, đưa đón và thông dịch khi đi bác sĩ hoặc thậm chí giúp Anh Ngữ cho một cô đang chuẩn bị luyện thi vào đại học…. Nhiều gia đình rất mến tôi vì nghĩ tôi hiền lành và nhất là đang dự định đi truyền giáo. Thấy tôi đã 30 tuổi mà chưa lập gia đình, một số gia đình cũng muôn tôi có cơ hội làm quen với con gái họ.
Trong số những cô thiếu nữ ấy nhiều cô cũng xinh đẹp nên làm chàng thanh niên chưa vợ như tôi cũng thầm cảm ơn những gia đình ấy lắm. Nhưng Chúa cũng đã chuẩn bị sẵn cho tôi tính tình không dễ dàng bị đốn ngã bởi sắc đẹp, nên tôi không hề bị rung động đến nỗi quên hết mọi sự. Ngày xưa ở Việt Nam, tôi may mắn có được bạn gái là hoa khôi của trường trung học phổ thông rộng lớn, biết bao nhiêu chàng trai mong ước được sánh bước cùng, ấy vậy mà nàng chỉ thích một mình tôi. Rồi khi nợ nước tình nhà thôi thúc tôi vẫn lên đường vượt biển. Tôi thuộc loại người chỉ biết sống cho lý tưởng: hồi mới lớn thì lo việc cứu nước, còn bây giờ… tôi chỉ muốn đi truyền giáo để đáp lại phần nào ơn nghĩa quá lớn mà Cha Thiên Chúa đã ban cho tôi mà thôi. Những việc nhi nữ thường tình… khó mà làm cho tôi bận tâm được lắm. Nói thật, cho dù có là hoa hậu thế giới đi nữa, tôi cũng không bao giờ trồng cây si khúm núm bao giờ. Nhưng tôi cũng chưa được nhiều về ơn đức này, sỡ dĩ tôi chọn đi truyền giáo bên Tin Lành chẳng qua vì tôi tự biết mình không thể sống độc thân như các linh mục bên Công Giáo mà thôi.
Để đáp lại ân tình, tôi càng giúp họ nhiệt tâm hơn nữa. Tôi làm cả hồ sơ xin được ở nhà chính phủ cho khá nhiều người. Vì Cha Thiên Chúa đang ở cùng và vì trong số họ cũng có con cái của Ngài nên Ngài chúc lành cho mọi sự. Sau này có người gặp lại, nhắc lại quãng thời gian ấy, nói rằng nếu không có tôi, chẳng biết lúc đó họ phải xoay sở ra sao. Họ đâu biết rằng nếu không có Thiên Chúa giúp hộ một tay thì tôi chẳng thể nào may mắn vậy. Ngài là Thiên Chúa của người nghèo, huống chi những người nghèo ấy lại là con cái, luôn cầu nguyện kêu réo nơi Ngài.
Lúc ấy nhà thờ Công Giáo Việt Nam ở khá gần chỗ chúng tôi sống, có tượng đài Đức Mẹ ngoài sân. Tuy dự định đi truyền giáo bên Tin Lành nhưng tôi vẫn nhớ như in rằng Đức Mẹ đã đổ một chất lỏng gì đó trên đầu tôi, sau đó còn có LỜI CHA từ trời cao vọng xuống: “TỪ NAY CON ĐÃ LÀ CON CỦA TA! SỨ MẠNG CỦA CON LÀ LÀM CHỨNG CHO THẾ GIỚI BIẾT RẰNG ĐỨC MẸ MA-RI-A LÀ THÁNH NỮ ĐỒNG TRÌNH”. Bởi vậy, tôi đến cầu xin với Mẹ: “Mẹ ơi! Trong số những con gái của Mẹ, xin Mẹ hãy chọn cho con một cô. Không cần xinh đẹp miễn là đừng khó coi quá, nhưng sau này sẽ giúp con đi truyền giáo và làm việc cho Chúa là được”.
Bây giờ nghĩ lại thấy lời cầu nguyện ấy thật oái ăm. Đã là con cái Mẹ, lại sẽ cùng tôi đi truyền giáo bên Tin Lành. Ấy vậy mà Mẹ vẫn để cho tôi toại nguyện. Có điều, đất như sụp đổ dưới chân Mai và gia đình nàng. Bây giờ, chuyện đã qua lâu lắm rồi tôi thật tình cũng chẳng muốn nhắc lại làm gì. Hơn nữa, tôi cũng đã được phép của bà xã rồi nên có bật mí chút xíu cũng không sao.
Đại khái là Mai bị mang tiếng xấu. Câu chuyện thật ra cũng chẳng có gì, trai gái lớn lên yêu nhau, bỏ nhau là chuyện thường tình bên Mỹ. Nhưng với Cộng đồng Công Giáo Việt Nam mình lúc ấy lại xem như là trọng đại lắm, nên cứ bàn ra tán vào, lại có vẻ như muốn dìm gia đình người ta xuống bùn luôn. Tôi thì lúc đó đã ở Mỹ trên mười hai năm, chuyện nào cũng đã từng trải qua, huống hồ chi chỉ là việc trẻ con như vậy. Thời điểm ấy tôi biết chỉ có tôi mới cứu nổi cho Mai, lý do đơn giản vì tôi đang hưởng mọi tiếng tốt trên đời, và lý do kia cũng không kém phần mạnh mẽ: là sự gan lì nóng nảy của tôi vốn đã “độc bá quần hùng” từ bấy lâu nay ở thành phố này. (Việc này khi đến thời điểm thích hợp tôi cũng sẽ viết lại hết trong NK này). Nếu có tôi đi cùng Mai, chắc cũng khó có ai dám nói xa nói gần khiêu khích. Còn mẹ Mai thì trước nay cũng rất bằng lòng. Hai người mẹ, một bên là Mẹ Maria, còn một bên là mẹ của Mai đã âm thầm vun đắp cho chúng tôi nên một.
Quãng thời gian ấy, tôi chẳng có thân nhân chú, bác hoặc người lớn nào ở đây cả. Nên việc hỏi gả cưới xin cũng gặp nhiều rắc rối. Lúc mới quen, tôi có chở Mai đến nhà chú Phi là người tôi rất mến mấy năm về trước, vì chú cũng chỉ biết có kháng chiến mà thôi. Chú này cũng thuộc loại người rất gàn, sau khi biết được gia đình Mai bên Công Giáo cứ lắc đầu quầy quậy. Tôi thấy chú cũng không thích hợp làm người trung gian nên cũng thôi luôn. Hai đứa cứ gần nhau như vậy, chẳng khác nào để lửa gần rơm, sớm muộn rồi cũng sinh ra chuyện.
Có lần tôi đi làm về, thì một đám mấy đứa bạn của Mai đến nhà chơi, khuyên chúng tôi nên chính thức lập gia đình. Tôi thì cũng đã sẵn sàng, nhưng thông thường, “việc người thì sáng mà việc mình thì quáng” tôi thật chẳng biết phải ăn nói ra sao. Thôi thì cũng đành vậy, tôi nhớ sau hôm ấy mình cũng ăn mặc chỉnh tề sang nhà Mai hỏi vợ. Thật tình mà nói, ông nhạc lúc ấy còn trẻ, chưa từng có sui gia, lại thêm xử sự lúc nào cũng phải theo nguyên tắc nên chẳng thích kiểu đi “hỏi vợ” như tôi chút nào. Thế là tôi cũng nổi nóng lên, muốn ra sao cũng được, chẳng cần hỏi xin gì nữa cả.
Mai thấy vậy cũng bỏ theo tôi luôn. Hai đứa cứ vậy sống với nhau, tôi xin lỗi với Cha Thiên Chúa đã để xảy ra sự việc như vậy và xin Ngài ra tay dàn xếp mọi sự. Lúc ấy tôi cũng nói với Mai về dự định của mình là đang để dành tiền để xin vào trường YWAM, Mai nói nàng sẽ theo tôi đi truyền giáo đến cùng.
Cho đến thời điểm này, tuy được nhận là con Thiên Chúa, nhưng tôi vẫn chưa ý thức được sự thấp hèn của bản thân mình và bí tích hòa giải của bên Công Giáo ra sao? Mọi thứ đã đến với tôi quá nhanh, quá sớm. Tôi vẫn chưa thoát khỏi cái khuôn “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” mà mình đã lớn lên trong triết học Đông phưong. Thiên Chúa đã để cho tôi trải qua hết như vậy để tôi biết rằng cái Nhân mà tôi lâu nay coi trọng chẳng là gì cả khi sánh với cái Nhân của Trời, của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Cái Trí kia chẳng là gì khi ngay Đấng Chủ Tể của linh hồn mình là ai mà mình vẫn còn chưa biết. Tấm lòng mong ước được đi truyền giáo kia, bất quá chỉ là cái quả của cái nhân sinh quan “Ơn đền, oán trả” mà thôi. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thành nhà truyền giáo mà việc của Cha dưới thế vẫn tốt đẹp như thường. Tôi cần phải được thay đổi nhiều, thật nhiều hơn nữa.
Một thời gian sau, ba Mai kêu tôi đến nhà để lo việc hai đứa lập gia đình cho xong. Chúng tôi bắt đầu ghi danh học Giáo Lý Hôn Nhân và chuẩn bị làm đám cưới. Ngày 14-5-1994 hôn lễ được cử hành tại nhà thờ Khiết Tâm Mẹ. Trước đó một tuần, tôi được làm lễ rửa tội và thêm sức theo nghi thức Công Giáo, bên gia đình Mai còn có hai linh mục bên Dòng Đồng Công về đồng tế với cha chánh xứ và tặng cho chúng tôi Bảng Ban Phép Lành Tòa Thánh do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ký tên làm quà cưới. Từ mấy năm qua, tuy được trải qua nhiều biến cố nhưng cũng chỉ mới đi bên lề Giáo Hội, chưa thật sự vào đến bên trong, chưa thực sự sống như một người Công Giáo. Tôi biết tuy bên ngoài là sự vun vén chúc lành của những người thân bên gia đình của Mai, nhưng đằng sau đã là bằng chứng của sự tha thứ của Cha Thiên Chúa cho những lỗi lầm của tôi rồi. Vì vậy tôi trân quý tấm bảng chúc lành ấy lắm, vẫn treo nó trong phòng của chúng tôi từ ngày ấy đến giờ…
Gioan Phan Tân